
Hôm qua đọc bài của một bạn bên IT, tiếp xúc khái niệm về full-stack engineer. Bên ngành đấy thì họ vẫn còn đang tranh luận về khái niệm full-stack, cơ bản là rằng một IT full-stack thì là một người biết hết tất cả kỹ thuật từ front-end đến back-end (hiểu theo chiều rộng), hay là còn 1 cách hiểu nào khác (hiểu theo chiều sâu)?
Đến đây thì tôi tạm dịch chữ “full-stack” là “toàn diện” (hoặc “kiện toàn”)
Nghe có vẻ vô lý rồi phải không?
Vì khó ai có thể tự tin nói rằng mình “toàn diện”. Vậy nên tôi sẽ cứ để chữ “full-stack” / hoặc “toàn diện” này trong ngoặc kép, để đảm bảo loại trừ những cách hiểu cực đoan.
=========
Và bây giờ tôi nghĩ về khái niệm giáo viên “full-stack”.
Đối với chuẩn [giáo viên giỏi] bậc THCS-THPT của Bộ GD cập nhật 2023, thì bài thi giáo viên giỏi bao gồm 02 phần là giảng dạy 1 tiết học thực tế và đề xuất 1 giải pháp cải thiện chất lượng công tác tại cơ sở. Đây là điều mà Cô Thầy nào công tác tại một cơ sở GD nào cũng đều (nên) hoặc (cần) nắm để coi như một (trong nhiều) chuẩn đo lường hoạt động của mình.
Trong bài viết này, tôi trình bày góc nhìn của tôi về một giáo viên toàn diện (full-stack).
Theo tôi, từ góc nhìn thực tế, một giáo viên toàn diện (full-stack) cần luôn tìm cách làm mới, hoàn thiện và tối ưu bản thân ở 03 khía cạnh dưới đây: (dù cho bạn dạy môn gì)
Đối với tôi, phần này rất thú vị.
Tôi hay tưởng tượng và đặt mình vào một bối cảnh “không giống ai” thế này: tôi cứ luôn tưởng tượng đến 1 lúc nào đấy, sẽ có một giáo viên trẻ nào đấy (hoặc một học sinh) đến và thách thức tôi làm một thao tác trong môn học của mình để xem mình sắc bén đến đâu. Ví dụ trong môn tôi dạy là Tiếng Anh, thì tôi luôn chuẩn bị tâm thế cho mình là một ngày đẹp trời bỗng dưng có 1 anh tài nào đấy ghé thăm trường và rủ tôi làm một bài listening hoặc reading test (theo chuẩn IELTS chẳng hạn) và xem trong vòng thời gian giới hạn 60 phút thì ra điểm ai cao hơn ai; hoặc là đùng 1 phát “kẻ thách thức” đấy rủ tôi đi đến một hội thảo song ngữ để xem tôi có đảm trách được công việc phiên dịch hay không.
Khi tôi trình bày phần này với vài bạn đồng nghiệp của mình thì tôi nhận được những cú phì cười. Và có thể nhiều bạn đọc đến đây cũng cho rằng tôi lo hơi quá. Nhưng tôi hoàn toàn nghiêm túc về vấn đề này.
Vì tôi cho rằng mặc dù đi so sánh về kiến thức chuyên môn thì cũng mang một chút hơi hướng khập khiễng; nhưng đã đi truyền dạy cho học sinh kiến thức thì ít nhất giáo viên cũng phải đạt đến một tầm cao nhất định để có sự CHÍNH XÁC trong học thuật, nhằm đảm bảo những gì mình giảng dạy cho học sinh không bị sai.
Việc học như con thuyền ngược nước, không tiến ắt sẽ lùi. Tôi thì luôn quan niệm giáo viên nếu không “mài rìu” thì sẽ bị “lụt nghề” rất nhanh. Mỗi ngày tôi đều dành khoảng 30 phút là ít nhất để tự rèn luyện kiến thức về chuyên môn tiếng Anh như thế (lấy bài luyện HSG QG ra làm, hoặc làm đề IELTS, hoặc xem CNN hoặc BBC như một học sinh tiếng Anh đang học)
Đây là chi tiết giúp phân biệt giáo viên thực thụ và người chỉ giỏi chuyên môn làm nghề.
Ngoài xã hội người ta hay nói: “ai làm không nổi thì đi dạy”. Dẫu biết đây là một quan niệm quá xưa cũ, và nó cũng chỉ áp dụng được cho một vài ngành nghề, nhưng tôi hoàn toàn phản đối. Lấy ví dụ như trong môn đầu tư chứng khoán, thì việc một nhà đầu tư (hoặc môi giới) có kỹ năng và nhạy bén thị trường để kiếm lời trong rổ tài sản của mình, nó KHÁC hoàn toàn so với việc nhà đầu tư (hoặc môi giới) đó có khả năng hướng dẫn lại cho một sinh viên học về chứng khoán một cách hiệu quả hay không.
Theo ý tôi, yêu cầu cần đạt thứ hai (trong một thế “kiềng ba chân”) của một giáo viên “full-stack” (toàn diện) chính là kỹ năng giảng dạy. Nói cách khác, đó là khả năng “diễn đạt lại” những khái niệm hoặc quy trình một cách DỄ HIỂU; và “truyền đạt bằng ngôn ngữ” rõ ràng để giúp người học nắm bắt được kiến thức hoặc kỹ năng một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
Khi giáo viên làm được điều trên, thì mới tạm gọi là có thể làm nghề giáo.
Và sở dĩ gọi là kỹ năng, vì giảng dạy là thao tác có thể học được, có thể rèn luyện và giỏi lên từng ngày được, nếu người làm giáo viên chịu khó trau dồi và luyện tập. Không phải ai học nghiệp vụ sư phạm xong cũng có thể làm giáo viên tốt, và có những người chưa từng học qua lớp nghiệp vụ sư phạm nào, lại có thể trở thành người Cô người Thầy đầy nhiệt huyết trong mắt học sinh – chính là bởi vì kỹ năng giảng dạy này.
Và tiếp đó còn một tầng cao hơn nữa là truyền cảm hứng hoặc động lực để học sinh có một ham muốn hoặc khát khao chiếm lĩnh kiến thức trong môn học của mình. Nhưng đó sẽ là câu chuyện làm nghề và nét đẹp nghề giáo mà tôi sẽ trình bày ở một dịp khác.
Việc thấu hiểu và thừa nhận cảm xúc của học sinh là rất quan trọng để tạo ra một môi trường học tập tích cực và an toàn. Việc giáo viên nhận ravà phản ứng đúng cách với cảm xúc của học sinh có thể giúp các em phát triển tinh thần tốt hơn, quản lý căng thẳng và cải thiện khả năng học tập rất tốt. Một trong những bước quan trọng nhất trong việc hiểu cảm xúc của học sinh là lắng nghe các em một cách tích cực và đặt mình vào vị trícủa học sinh để hiểu quan điểm của các em. Bằng cách này, giáo viên có thể hiểu rõ hơn về suy nghĩ và cảm xúc của họ, từ đó chủ động tạo ra một MÔI TRƯỜNG AN TOÀN, nơi học sinh có thể thể hiện cảm xúc của mình mà không phán xét hay chỉ trích.
Một yếu tố quan trọng nữa khiến cho việc đứng lớp trở nên thú vị, là khả năng quan sát giao tiếp “phi ngôn ngữ” của giáo viên. Ngôn ngữ cơ thể, nét mặt và giọng nói của các học sinh có thể cung cấp cho giáo viên cái nhìn sâu sắc về trạng thái cảm xúc của các em vào thời điểm đó. Tôi cho rằng việc quan sát này không có gì quá khó, chỉ cần mỗi Cô Thầy thực sự bước vào mỗi tiết học với một tâm thế thoải mái và hết lòng quan tâm đến học sinh của mình là sẽ phát hiện ra.
Cuối cùng, điều quan trọng là phải THỪA NHẬN cảm xúc của học sinh. Thừa nhận cảm xúc của học sinh cho thấy giáo viên hiểu và tôn trọng cảm xúc của học sinh.
So với việc nhận biết và quan sát thấy ở trên, việc THỪA NHẬN này sẽ càng khó đối với giáo viên càng lớn tuổi, vì khi người ta sống lâu hơn, trải nghiệm nhiều hơn, va vấp nhiều hơn – thì nhân sinh quan của họ cũng đổi thay.
Do vậy nhiều Cô Thầy (hoặc các bậc PHHS) cũng cảm thấy khó đồng cảm được với con em mình khi các cháu bước vào độ tuổi “ẩm ương” (dậy thì, thanh thiếu niên v.v…) với những nhu cầu mới mẻ và những hành động thể hiện tính cách bộc trực. Để khắc phục lỗ hổng này, bản thân người giáo viên phải hết sức chủ động và cố gắng trong việc trang bị kiến thức & thông tin về tâm lý học sinh để không bị quy chụp hoặc quên rằng mình và các em không cùng “thế hệ”.
Các bạn GV trẻ muốn biết thêm về lý thuyết có thể xem lại giáo trình các môn có trong trong giáo trình nghiệp vụ sư phạm. Một trong những điều tôi cho là “điểm yếu” của ngành chúng ta, hay nói cách khác là những người làm ngành giáo dục, đó là khi bàn quá sâu vào một chủ điểm, thì những người bàn luận thường có thói quen “trừu tượng hoá” và diễn đạt mọi thứ bằng ngôn ngữ mang tính học thuật cao. Điều này có thể đến từ kinh nghiệm công tác và quá trình trang bị kiến thức nghiệp vụ lâu năm.
Tuy nhiên, cái gì quá xa rời thực tế thì khó áp dụng, và cái gì diễn đạt bằng ngôn ngữ phức tạp quá thì thường không có chiều sâu đúng nghĩa (ít ra là tôi đang tin như thế); do vậy tôi cố gắng giữ mức độ đơn giản trong ngôn ngữ và tính ứng dụng trong các bài viết của mình ở mức cao nhất có thể, ít ra là theo góc nhìn của tôi.
Để tóm lại bài viết, tôi cho rằng một “giáo viên toàn diện” (full-stack) hoặc có thể nói là “giáo viên giỏi”, trong bối cảnh thực tế, trong khoảnh khắc quan trọng nhất là lúc đứng trên bục giảng để truyền đạt bài học – thì phải có được 03 yếu tố nêu trên:
Mục Lục Bài Viết